Chương XVI
Cụ Phan Bội Châu
Có nhiều người tưởng Việt Nam Quốc dân Đảng của chúng tôi là một ngành của Việt Nam Quốc dân Đảng do cụ Phan Bội Châu lập lên khi cụ còn ở Tàu.
Kỳ thực thì khi ở Tàu, cụ Phan mới có cái chương trìng lập lên Việt Nam Quốc dân Đảng mà thôi. Còn sự thành lập Đảng chúng tôi, thì như tôi đã kể trên.
Tuy vậy, bảo Đảng chúng tôi là con đẻ tinh thần của cụ cũng chẳng có sao!
Và chẳng những thế, chúng tôi còn tặng cụ cái tên danh dự chủ tịch, và mong cụ giúp Đảng hai việc.
* Một là nhờ cụ đứng ra, đem oai quyền đạo đức mà thống nhất các đảng lại.
* Hai là nhờ cụ về phương diện ngoại giao, vì cụ quen thân với các yếu nhân ngoại quốc: Khuyển Dưỡng Nghị, Cung Ky Di Tàng ở Nhật, Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ ở Tàu.
Vì vậy, hôm mồng 2 tháng mười năm 1928, Tổng bộ đã cử ông Đặng Đình Diên vào Huế, để đạo đạt ý kiến anh em với cụ.
Hai ông già gặp nhau, rất là vui vẻ. Cụ Phan xin nhận là đảng viên của Đảng và nói: "Tôi già yếu thật, nhưng nếu còn có thể giúp ích được việc gì cho Tổ quốc, thì tôi xin hết sức phục tòng mệnh lệnh của anh em!" Cuối cùng, cụ giao ông Đặng tấm danh thiếp, phía sau có đề bốn chữ "khả dĩ đoạn kim", phòng khi Đảng có phái người vào gặp cụ thì cầm thiếp ấy làm tin.
Đến cuối năm, ngày mồng chín tháng 12, trong kỳ hội nghị bầu Tổng bộ mới, nhân co' việc định cử phái bộ ngoại giao sang Nhật và sang tàu, Đảng liền cắt anh Học và tôi vào xin cụ viết cho mấy bức thư giới thiệu.
Tổng bộ lần này là Tổng bộ thứ ba, tổ chức theo điều lệ mới, gồm có hai ủy viên hội: lập pháp và chấp hành. Bên lập pháp, anh Nguyễ Khắc Nhu, hiệu Song Khê và tục gọi là Xứ Nhu làm chủ tịch. Anh Học làm phó chủ tịch. Bên chấp hành thì anh Nguyễn Thế Nghiệp đứng đầu. Về chương trình hành động, thêm ra một thời kỳ thứ tư là thời kỳ kiến thiết. Sau khi cách mệnh thành công, Đảng sẽ tổ chức một chính phủ cộng hòa, theo chủ nghĩa dân chủ xã hội.
Nhưng tôi hãy nói tiếp về việc cụ Phan Bội Châu.
Được lệnh anh em cử, tôi hẹn với anh Học mồng 4 Tết năm Kỷ tỵ (1929) sẽ gặp nhau ở Hà nội, rồi sẽ vào Huế.
Khi tới Hà nội, tôi được tin tên Ba Gianh bị giết.Tôi đi tìm anh Học, mới biết đó là thủ đoạn của anh em trong ám sát đoàn. Tôi bảo anh Học:
- Nếu vậy thì một mình tôi đi Huế thôi. Mệnh lệnh Đảng, cố nhiên phải phục tòng. Thế nhưng tôi bị bắt thì được, chứ anh bị bắt thì không được! Đảng cần đến anh hơn tôi.
Anh Học cho là phải. Chúng tôi liền uống với nhau một bữa rượu tiễn hành. "Ai hay vĩnh quyết là ngày sinh ly".
Đêm hôm ấy hai tôi đã cùng nhau chuyện trò, cười, khóc suốt đêm. Và từ đấy, tôi không được gặp Học ở trong đời nữa!
Khi tôi vào Huế, tìm vào đến nhà cụ Phan thì người nhà cho biết cụ ra chơi cửa Thuận. Tôi vơ vẩn ở bờ sông Hương, ngóng thuyền cụ trở về. Ánh trăng soi sáng những bông lau, bông sậy nở dọc hai bên bờ sông, cho tôi một cảm giác mơ hồ... Tôi làm một bài thơ đề là "Qua Huế, thăm cụ Phan Sào Nam, không gặp, có cảm". Hôm sau tôi đem bài thơ ấy đưa trình cụ:
Nguyên văn bài thơ
Diễn âm:
Trục trục trường đồ phú viễn chinh,
Thưong tâm khiếp kiến cựu đô thành!
Nhân lòng túy mộng trung sinh tử!
Địa lịch tang thương kiếp biến canh!
Bích thủy nạn tiêu vong quốc hận!
Thưong tùng trường tác bất bình minh!
Mỹ nhân thiên mạt tri hà xứ?
Minh nguyệt, lô hoa, vô hạng tình!
Dịch nghĩa:
Tất cả đường trường dám quản công!
Thành xưa nhìn lại giục đau lòng!
Sống say, chết mộng người bao kiếp?
Biến đổi, dâu thay đất mấy vòng?
Nhục rửa sạch đâu, sông lộn sóng?
Uất còn chứa mãi, gió gào thông!
Cuối trời đâu tá con người đẹp?
Thổn thức ngàn lau ánh nguyệt lồng.
Cu. gặp tôi, tỏ vẻ rất vui mừng.
Trò chuyện suốt một buổi trời, đức độ của cụ khiến lòng tôi chứa chan cảm động. Cảm động nhất là đến bửa ăn, trên mâm chỉ có một diã lòng lợn, một bát canh rau, và một phạng gạo bầu, đỏ ối!. Tôi cùng ngồi ăn với cụ để được nhiều thì giờ mà nói chuyện. Nói đến chuyện chia rẽ của các đàng trong nước, tôi thở dài:
- Khồ nhất là người ốm nằm đó mà các thầy lang cứ cãi nhau mãi về y án!...
Cuụkhen câu nói hay và hứa sẽ cố sức điều đình cho các đảng được mau hợp nhất. Về việc ngoại giao, cụ hẹn hôm sau đến, cụ sẽ giao cho những bức thư cần cụ viết. Tiếng cụ to, sang sảng như vàng đá. Và mỗi khi đắc ý, cụ lại xưng tên và nói một câu bằng chữ nho...
Trời đã muộn, tôi cáo từ lui chân. Cụ tặng tôi cuốn Việt Nam Sử Lược của cụ viết bằng Hán văn, và vỗ vai tôi khi ra đến cổng ngoài:
- Thầy tỏ ra người làm được việc. Châu kỳ vọng ở thầy nhiều lắm!
Cố nhiên đó là một câu nói khuyến khích. Nhưng tội nghiệp! Tôi biết làm thế nào cho khỏi phụ những tấm lòng cha, anh, thầy, bạn mong chờ ở tôi?
Hôm sau tôi không được trở lại hầu cụ nữa, vì sở mật thám Huế đã đón tôi về Bắc rồi!
Tôi kể thêm ra đây câu chuyện một năm sau, anh em trong đảng định đánh tháo đem cụ trốn ra ngoại quốc. Ấy là năm 1930. Anh Song Khê đã viết thư cho người đem vào trình cụ. Nguyên hồi xưa, cụ là bạn thân với cụ Cử Nội Duệ, thầy học anh Song Khê. Cái chí lớn của anh đã được lòng yêu của thầy và của cả bạn thầy. Cho nên được thư là cụ nhận ra ngay. Cụ rất mừng và rất vui lòng lại ra ngoại quốc để giúp việc ngoại giao cho Đảng. Về phần Đảng, định dùng năm chiếc ô tô để đón cụ từ Huế qua Nam quan! Đi đến đâu, sẽ sắp người cắt đứt giây thép, giây nói, và chặt cây, xếp đá ngang các ngã đường phía sau. Như vậy, quân địch dù có dùng ô tô để đuổi theo cũng không kịp.
Nhưng mưu đồ đó đã không thành sự thực!
Và cụ đành ôm ấm lòng vì Đảng, vì nước, uất ức ở dưới suối vàng!