Chương XIV
Hồn Cách Mệnh và Việt Nam Khách Sạn
Trong năm 1928, mọi phương diện đều tiến hành một cách rất lạc quan. Sở dĩ được thế, cố nhiên là nhờ công sức của hết thảy các đồng chí xa gần. Nhưng phần lớn cũng là nhờ ở sự tận tâm không bờ bến của anh Học.
Thực vậy, anh Học đã làm việc cho Đảng quên cả đêm, quên cả ngày, quên cả ăn, chỉ co' không quên cái ... ngủ! Không! ta có thể bắt Anh nhịn đói, bắt Anh đi bộ vẹt cả gót giầy, bắt Anh mọi cái đủ thiếu thốn về vật chất, nhưng đến lúc Anh buồn ngủ thì phải để cho Anh ngủ! Một lần có một tin gì, nghe ra khá nguy cấp, tôi lên Thư xã tìm Anh. Tới nơi thì thấy Anh đương nằm chổng chân lên mà ngáy khò khò!. Tôi lật ngửa Anh lại mà bảo:
- Học! Học! Mày có biết chuyện gì không!
Anh, mắt vẫn nhắm, miệng thì cười đáp tôi:
- Có! Có!
- Thế mà mày nằm đây được à?
- Thì cũng phải để cho tao ngủ chứ! Không ngủ, chết mất mạng, còn làm sao được việc đời!
Nói xong Anh khì khhì cười, rồi lại nằm sấp mặt lại mà ngủ!
Sự tận tâm của Anh, các đồng chí ai cũng phải công nhận, coi Anh khác nào linh hồn của Đảng. Vì vậy hồi tháng 7 năm 1928, Tổng bộ hết hạn lại bầu lại. Anh lại được cử làm chủ tịch. Anh nghiệp và tôi đều rớt ra ngoài Tổng bộ, sau cuộc tuyển cử này.
Công việc hồi cuối năm ấy, tiến hành đều đều. Các thư ký, các giáo dục, các nhà công thương xin vào đảng khá nhiều. Đáng chú ý nhất là trong quân ngũ, anh em rất tán thành chủ trương của đảng. Ở Nam Việt, chúng tôi có đến 256 võ trang đồng chí. Ở Bắc Việt, cũng có ngót đến bốn trăm. Cho nên đến năm sau khi việc đảng phát lộ, nhà thực dân Pháp phải hoảng hồn! Trong lời buộc tội chúng tôi của quan chánh hội đồng Đề hình, co' câu:
"... Các giáo viên, các binh sĩ là hai cây cột chống đở mái nhà Đông dương. Việt Nam Quốc Dân Đảng đã làm lay chuyển hai cây cột ấy!... Nguy hiểm nữa là những kẻ được họ rủ rê, vào thì vào, không vào thì cũng không một ai đi tố cáo các nhà đương cục, (trừ Nguyễn quốc Túy!) Sự im lặng đó, khác nào đồng mưu ..."
Tôi đã vui miệng kể lạc xa quá đề mục rồi! Tôi phải trở lại câu truyện Hồn cách mệnh dã.
Đó là tên tờ báo, cơ quan của Đảng tôi, in bằng thạch và phát hành ngầm trong các đồng chí. Tòa báo ở đường Sơn tây, do đoàn học sinh mà anh Đoàn Trần Nghiệp, tục gọi Ký Con, coi việc ấn loát. Bài vở thì do anh Học làm chủ bút. Giữ theo nguyên tắc, hết sức tránh các giấy tờ, tôi chẳng bao giờ biểu đồng tình với việc ấy. Tuy vậy, theo mệnh lệnh Đảng, tôi cũng phải viết bài cho báo. Và còn viết cả cuốn sách, đề là Cách mệnh tiên thanh, kể tội bọn thực dân gần mấy chục điều! Một cuốn sách như vậy, cố nhiên cũng phải in lậu và phát hành trong bóng tối!
Tôi kể lại đây cái kỷ niệm một đêm ở tòa báo Hồn Cách mệnh.
Tòa báo không có một ai, trừ ông chủ nhà in đó là anh Đoàn Trần Nghiệp! Nói là nhà in, nhưng chẳng máy móc gì cả! Mà không có cả đến giường, ghế, chỉ có một cái bàn, ngày là bàn viết, đêm biến thành cái bàn... nằm! Tôi đã nằm đó mà đọc cho anh Nghiệp viết mấy bài báo trong kỳ sắp ra! Rồi khuya khuya, bụng tôi thấy đói, tôi bảo anh Nghiệp:
- Tôi còn ba hào đây! Anh tìm cái gí ăn?
Anh Nghiệp cười:
- Đường này vắng, chẳng có hàng bán rong đâu. Chỉ góc đường đàng kia, co' ca'i hàng bán thịt chó!
Thế rồi hai chúng tôi ăn vã thịt chó chấm nước mắm! Mà ăn bốc, vì chúng tôi không có bát, đũa gì.
Ăn xong, chúng tôi uống mấy ngụm nước máy rồi ôm nhau mà nằm. Suốt đêm, anh Nghiệp không nói câu gì. Đó là một thói quen của anh. Vì thế tôi thường vẫn gọi là "con người biết cười chứ không biết nói"! Tôi không ngờ con người ấy mà về sau đã làm nên những sự nghiệp kinh thần, khốc quỉ ở đời!ì
Giờ, xin kể đến chuyện Khách sạn Việt Nam. Việc ấy quyết định váo kỳ hội đồng Tổng bộ ngày mồng 7 tháng 8. Đảng dùng nó làm cơ quan kinh tế, nghiã là buôn bán để lấy lời giúp Đảng. Tiền vốn thì quyên trong anh em, người cho nhiều nhất là Hoàng Trạc và Đặng Đình Diên, người năm trăm, người một nghìn đồng. Ngày 30 tháng 9, khách sạn mở cửa, người làm từ ông chủ đến bồi bếp đều là đảng viên.ì
Những tên mật thám nhìn chúng tôi bằng con mắt hằn học, bảo chúng tôi thường dùng đó làm nơi hành lạc và họp hội đồng. Kỳ thực thì ngay trong các buồng khách sạn, họ đã phái người đến ở thuê để dò dẫm chúng tôi. Có bao giờ chúng tôi khờ dại mà họp hội đồng ở đó. Ban đầu, khách ăn rất là đông đảo. Vì cơm Tây, cơm Tàu, cơm Ta, ở đây đều làm khá ngon và bán giá hạ. Nhưng kẻ địch đã cho người phao tin, làm cho nhiều người sợ liên lụy không dám đến đó ăn nữa. Cho nên đến khi chúng tôi bị bắt, khách sạn đã lỗ đến cơ hồ hết cả vốn! Nghĩ ra, việc kinh doanh ấy thật là một việc thất sách của chúng tôi.